Tùy thuộc vào độ tuổi và có thể là cả giới tính, bạn có thể chưa từng thử uống sữa đặc, thậm chí là không biết đến. Rất có thể bà hoặc bà cố của bạn đã làm ít nhất một món ăn gia truyền với hương vị truyệt bằng cách sử dụng nhiều loại nguyên liệu khác nhau.
Vào đầu những năm 1900, cả hai loại sữa này đều được sử dụng nhiều hơn sữa tươi vì chúng có hạn sử dụng lâu dài hơn và an toàn cho sức khỏe người dùng hơn sữa tươi. Tất nhiên, sau khi chính phủ có luật để khẳng định sự an toàn của sữa tươi, và tủ lạnh ra đời sau đó nhanh chóng trở nên phổ biến, xuất hiện hầu hết trong căn bếp của mọi gia đình, thì sữa tươi đã được tiêu dùng nhiều hơn.
Những người trong lực lượng vũ trang đã quá quen thuộc với cả hai loại sữa này. Ngày nay, còn có thêm các phiên bản ít chất béo, tách béo và không béo nếu bạn muốn chế biến chúng thì số công thức để làm đồ ngọt và món tráng miệng là không giới hạn. Tuy nhiên hãy tìm hiểu kĩ về các loại sữa này trước khi mua và sử dụng.
Mục Lục
Lịch sử sữa hộp
Trước thế kỷ 19, việc uống sữa có thể dẫn đến một tình huống tồi tệ, thậm chí là ảnh hưởng đến sức khỏe của người dùng. Nguyên nhân là do sữa được lấy trực tiếp từ con bò và đem vào sử dụng ngay lập tức thay vì tiệt trùng.
Ngoài ra trong mùa hè nóng nựa, sữa có thể bị hỏng một cách nhanh chóng. Bệnh bắt nguồn từ việc tiêu thụ sữa bị ô nhiễm được gọi là “say sữa”, “ngộ độc sữa”, “chậm tiêu”, “run rẩy” và “ác quỷ sữa”. Cứ cho là một số bệnh này (xét đến kiến thức hiện đại về chứng không dung nạp đường sữa) có lẽ không phải do sữa hoặc chỉ riêng sữa, nhưng sự kì thị đối với sữa vẫn tồn tại.
Ý tưởng về một sản phẩm sữa đóng hộp di động không hư hỏng đã xuất hiện trong đầu Gail Borden khi ông đang trong một chuyến tàu đi xuyên Đại Tây Dương vào năm 1852. Những con bò trong hầm bị say sóng nên không thể cho sữa trong suốt chuyến đi dài, và một đứa trẻ sơ sinh nhập cư đã chết vì thiếu sữa. sữa. Borden nhận ra mục tiêu của mình vào năm 1854.
Sản phẩm sữa đặc đầu tiên của ông để được ba ngày mà không bị chua. Đầu tiên, ông nghĩ rằng quá trình cô đặc của sữa làm cho nó bền hơn nhưng sau đó nhận ra rằng chính quá trình đun nóng đã giết chết vi khuẩn và vi sinh vật gây hư hỏng.
Borden đã được cấp bằng sáng chế cho sữa đặc có đường vào năm 1856. Đường được thêm vào để ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Sữa gầy không có bất kì loại chất béo nào đã được đem vào sử dụng.
Việc sử dụng phiên bản sữa ít chất dinh dưỡng này làm thức ăn cho trẻ nhỏ thuộc tầng lớp lao động được cho là một trong những nguyên nhân gây bệnh còi xương vào năm 1905. Công ty Borden đã đưa ra thông báo về điều này lên báo chí vào năm 1924, chỉ ra và ca ngợi những ưu điểm của sản phẩm, đó là tác dụng “giúp giảm đau cho những người tị nạn chiến tranh và điều trị cho học sinh ở các trường công ở New York.”
Đọc tiếp: Ballottines và Galantines
Lần ra mắt đầu tiên không thành công của sữa đóng hộp
Sản phẩm sữa đặc mới của Borden không được đón nhận nồng nhiệt trong những ngày đầu ra mắt. Nguyên nhân là do vào thời điểm đó, phần lớn khách hàng đã quen với việc sử dụng sữa pha loãng, loại sữa này được thêm thêm phấn để tạo màu trắng đặc trưng và thêm mật mía để tạo độ sánh. Borden đã bắt đầu sản xuất thương mại vào năm 1857 tại Burrville, Connecticut.
Khi tờ báo có tranh minh họa của Leslie vạch trần một hành vi đáng ngờ là những con bò ở New York đã được cho ăn hỗn hợp của nhà máy chưng cất rượu chứ không phải một loại thức ăn có chất lượng đáng tin cậy, nhờ đó mà việc kinh doanh sữa đặc của Borden đã phát triển hơn rất nhiều. Năm 1861, Liên minh Quân đội đã mua sữa đặc của Borden để sử dụng làm thức ăn trên chiến trường, càng làm cho sản phẩm này nổi tiếng hơn.
Chính John Baptist Meyenberg là người đầu tiên đề xuất những người chủ của mình tại Công ty sữa đặc Anglo-Swiss ở Thụy Sĩ về ý tưởng sản xuất sữa đặc đóng hộp vào năm 1866. Vì công ty đã sản xuất sữa đặc có đường rất thành công nên ý tưởng này đã nhanh chóng bị từ chối.
Meyenberg di cư sang Hoa Kỳ và thành lập công ty riêng của mình, đặt tên là Helvetia Milk Condensing Co. (Sữa dành cho thú cưng), sau đó đưa ra thị trường sản phẩm sữa đặc không đường vào năm 1890.
Mặc dù Borden đã nhận được bằng sáng chế của mình vào năm 1854, sữa đặc không đường đóng hộp đã không được thành công cho đến năm 1885, bởi đối thủ cạnh tranh John Meyenberg.
Borden đã thêm sữa cô đặc vào dòng sản phẩm vào năm 1892. Năm 1899, Elbridge Amos Stuart đã đưa ra một quy trình mới cho sữa cô đặc, tiệt trùng, đóng hộp. Với sự giúp đỡ từ nhà tiên phong về sữa đặc như Meyenberg, Stuart đã bắt đầu sản xuất thành công sữa cô đặc đóng hộp hàng loạt.
Các nhà sản xuất sữa đặc đã đi tiên phong trong việc sử dụng quá trình đồng nhất hóa (phân phối lại chất béo để chất này hòa quyện vào cùng sữa), nhưng các nhà sản xuất sữa sản xuất sữa tươi lại chậm một bước trong bắt kịp kĩ thuật này.
Với tất cả các cuộc thảo luận ngày nay về kĩ thuật chiếu xạ thực phẩm để loại bỏ các vi sinh vật gây bệnh từ thực phẩm, bạn có thể nghĩ rằng đây là một quy trình tương đối mới. Nhưng không phải như vậy.
Năm 1934, Công ty Sữa Pet đã giới thiệu các sản phẩm sữa cô đặc đầu tiên được bổ sung vitamin D thông qua quá trình chiếu xạ. Ngày nay, ít hơn hai phần trăm sản lượng sữa của Hoa Kỳ được chế biến bằng phương pháp cô đặc.
Công thức nấu ăn với sữa cô đặc
• Macaroni & Cheese (Crock pot)
• Thịt viên nướng kiểu Ý
• Hạt dẻ đường nâu
• Kẹo mềm nổi tiếng cẩm chướng
• Bột ngô (Sữa cô đặc)
• Sốt Mù tạt Herbed
• Kem mềm kiểu Ireland
• Bánh bí ngô Kahlua
• Bánh cupcake bánh quy sô cô la bơ đậu phộng
• Bơ đậu phộng
• Nui penne pasta nấu rượu Vodka
• Súp tiêu Philadelphia
• Sườn Heo Sốt Kem Dijon
• Povitica (Bánh mì ngọt nhân Croatia/Ba Lan)
• Bisque nấm bí đỏ
• Bánh sừng bò
• Bánh Rùa
• Kem Hồ Đào Khoai Lang
Công thức nấu ăn với sữa đặc có đường
• Pudding chuối
• Bánh Julep bạc hà Kentucky Derby
• Bánh chanh
• Bánh Margarita
• Bánh bí ngô